Quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào

20/07/2017 | 08:31 GMT+7

(Tiếp theo)

Thiết thực hưởng ứng “Năm đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào 2017, tiến tới kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào (5/9/1962 - 5/9/2017) và 40 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị, hợp tác Việt Nam - Lào (18/7/1977 - 18/7/2017), Báo Hậu Giang trích đăng nội dung về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, tài liệu do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn.

Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật

Hợp tác kinh tế hai nước trong công cuộc đổi mới luôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, với mong muốn là động lực thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ hợp tác khác.

Bước vào thời kỳ đổi mới, quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước dần có sự thay đổi theo hướng phát triển từ viện trợ không hoàn lại, cho vay là chủ yếu sang giảm dần viện trợ và cho vay, bước đầu đẩy mạnh hợp tác sản xuất, kinh doanh bình đẳng, cùng có lợi; đồng thời, trong hợp tác đã chuyển dần từ hợp tác từng vụ việc theo yêu cầu của phía Lào sang hợp tác theo chương trình, kế hoạch được ký kết giữa hai Chính phủ.

Thực hiện thỏa thuận tháng 10 năm 1991 giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, Ủy ban Kế hoạch nhà nước Việt Nam và Ủy ban Kế hoạch và Hợp tác Lào đã cùng phối hợp đề ra chiến lược hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Chiến lược này là cơ sở để hai bên phối hợp xây dựng và quyết định các chương trình và dự án kế hoạch hợp tác trong thời gian tới.

Ngày 15 tháng 2 năm 1992, tại Viêng Chăn, Việt Nam và Lào đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật thời kỳ 1992-1995 và năm 1992. Để hiện thực hóa Hiệp định khung này, Chính phủ hai nước đã tiến thêm một bước trong việc thống nhất cơ chế chung về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật.

Thực hiện các thỏa thuận quan trọng giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng (10/1991, 3/1993, 3/1994, 1/1995) về chủ trương, biện pháp tăng cường quan hệ và nâng cao hiệu quả hợp tác giữa hai nước, mỗi bên đã quán triệt rõ cho các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, tư tưởng chỉ đạo hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước là: giữ vững và phát huy truyền thống quan hệ đoàn kết giữa hai Đảng và hai dân tộc láng giềng anh em. Phát triển cả chiều rộng và chiều sâu quan hệ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm khai thác và phát huy tối đa tiềm năng của mỗi nước, phục vụ có hiệu quả nhất cho công cuộc phát triển, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.

Trên cơ sở của tư tưởng chỉ đạo nêu trên, ngày 15 tháng 3 năm 1995, tại Hà Nội, Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật đến năm 2000 được ký kết. Sau đó, Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giai đoạn 1996-2000 giữa hai nước Việt Nam và Lào cũng được ký kết. Ngoài các hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật ký kết hằng năm giữa hai Chính phủ, trong giai đoạn này, Việt Nam và Lào còn ký kết hàng loạt hiệp định và nghị định thư quan trọng nhằm thúc đẩy việc triển khai quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước.

Trong thời gian này, hợp tác về nông nghiệp và phát triển nông thôn được Đảng, Nhà nước ở hai nước ưu tiên phát triển, không chỉ để khai thác thế mạnh, tiềm năng sẵn có của Việt Nam và Lào, mà còn có ý nghĩa then chốt trong bảo đảm an ninh lương thực. Nội dung hợp tác giữa hai bên chuyển từ việc chủ yếu là hỗ trợ phát triển nông nghiệp và nông thôn ở một số vùng cụ thể sang kết hợp giữa hoạch định chiến lược phát triển nông nghiệp với quy hoạch sản xuất lương thực và thủy lợi trên các cánh đồng lớn của Lào. Từ năm 1996, hai bên phối hợp xây dựng mô hình thí điểm phát triển nông nghiệp gắn với nông thôn mới.

 Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp và thủy lợi sang giúp Lào nghiên cứu, thu thập tài liệu, khảo sát phân tích đất, thiết kế hệ thống thủy lợi, tiến hành xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật cho các dự án về nông nghiệp cũng như trực tiếp xuống tận các bản làng để giúp đỡ nông dân Lào canh tác, chuyển giao kỹ thuật, xây dựng hệ thống thủy lợi, phát triển kỹ thuật chăn nuôi theo phương pháp khoa học. Cùng với việc hợp tác với Lào xây dựng các văn phòng điều hành chương trình dự án, tổ chức các vườn cây giống, xây dựng các trạm thú y, các hệ thống thủy lợi, tập huấn cán bộ trồng trọt, chăn nuôi..., Việt Nam còn trang bị cho Lào những công cụ, máy móc, áp dụng kỹ thuật trồng lúa bằng nhiều hình thức, phương pháp tiên tiến. 

Từ đầu những năm 2000, hợp tác về thương mại và đầu tư là một lĩnh vực hợp tác được hai Đảng, hai Nhà nước đặc biệt quan tâm và cùng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của Lào đầu tư sang Việt Nam cũng như doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào. Quan hệ đầu tư trực tiếp tuy chưa trở thành lĩnh vực hợp tác lớn, nhưng đã có những ngành và doanh nghiệp có quan hệ hợp tác và thu được những kết quả đầy triển vọng.

Ngành thương mại hai nước xúc tiến nghiên cứu xây dựng đề án, tiến tới đầu tư xây dựng Khu thương mại tự do Lao Bảo - Đenxávẳn, xây dựng cửa khẩu quốc tế Cầu Treo - Na Pê, mở cửa khẩu phụ và 11 điểm chợ biên giới để thúc đẩy sản xuất và giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa hai nước, đặc biệt là các vùng biên giới Việt Nam - Lào. Quan hệ thương mại Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam nói chung, hoạt động kinh tế biên giới nói riêng có những tiến bộ rõ rệt, góp phần đắc lực vào việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân hai nước. Từ năm đầu những năm 2000, hoạt động hợp tác thương mại tiếp tục tăng, kim ngạch hai chiều từ 45 triệu USD/năm vào đầu những năm 1990 tăng lên 240 triệu USD vào năm 2006, đạt 422 triệu USD vào năm 2008 và 490 triệu USD vào năm 2010.

Sau khi có Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương giữa hai nước (14/1/1996) và các quy định về đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài (1999) cùng các thỏa thuận của hai Đảng, hai Nhà nước, hai bên có nhiều cố gắng chỉ đạo các ngành, địa phương, cơ sở triển khai nhằm đẩy mạnh hợp tác đầu tư liên doanh trên lãnh thổ của nhau, tạo nhiều điều kiện để trao đổi, tìm hiểu cơ hội đầu tư kinh doanh cho các doanh nghiệp hai bên. Các cuộc viếng thăm và làm việc của các đoàn cấp cao Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành hai nước; các cuộc hội thảo giữa doanh nghiệp hai nước do phía Lào tổ chức (10/1998) và Đại Sứ quán Việt Nam tổ chức (6/2000); các hội chợ hàng hóa tại Lào không ngừng thúc đẩy những cơ hội hợp tác trong lĩnh vực này. Về phía Việt Nam, Chính phủ đã ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Lào.

Hầu hết các cơ chế hợp tác đã được ký kết, tạo khung pháp lý quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai nước, thể hiện sự quyết tâm của hai bên nhằm nâng cao chất lượng hợp tác, dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau trên cơ sở thông lệ quốc tế và quan hệ đặc biệt giữa hai nước, như: thỏa thuận về tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện, hàng hóa qua lại giữa hai nước (Thỏa thuận Cửa Lò 1999), Quy chế tài chính và quản lý dự án sử dụng vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào.

Việc ban hành Nghị định về đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam (4/1999) kèm theo quy định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về quản lý và triển khai các dự án hợp tác với Lào (16/7/1999) đã làm cho số dự án đầu tư vào Lào tăng lên đáng kể. Từ năm 2001 đến 2005 có 18 dự án, chiếm 52,9% số dự án đầu tư vào Lào từ trước đến lúc này. 

Đầu tư trực tiếp của Lào vào Việt Nam cũng tăng nhanh, năm 2005 có sáu dự án với số vốn đóng góp của Lào là 4,3 triệu USD, đến năm 2007 tăng lên tám dự án với tổng số vốn 23 triệu USD, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: thương mại, du lịch và dịch vụ.

Năm 2006, hai bên đã cấp phép cho 52 dự án đầu tư vào Lào với số vốn đăng ký đạt 368,6 triệu USD. Năm 2007, phía Việt Nam có 87 dự án được cấp phép đầu tư vào Lào với tổng số vốn đăng ký là 1.020 triệu USD, xếp thứ ba trong tổng số 30 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Lào. Hội doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và đầu tư tại Lào ra đời vào năm 2010.

Nhiều dự án đầu tư sản xuất hàng hóa tiêu dùng nhằm tận dụng thế mạnh nguyên liệu và nhân lực sẵn có của Lào đã được đưa vào hoạt động. Các dự án với quy mô lớn được mở ra không những mang lại lợi ích kinh tế - xã hội, mà còn có ý nghĩa an ninh - quốc phòng, góp phần thực hiện chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nước. Đó là Nhà máy thủy điện Xê Camản 3 (240 MW), dự án trồng và chế biến cao su, các cây công nghiệp khác tại các tỉnh Nam Lào, khai thác và sản xuất muối mỏ kali ở Trung Lào, tổ hợp than điện Nặm Ngân,... đã và đang được các tổng công ty nhà nước và các địa phương của Việt Nam triển khai.

(Còn tiếp)

(Nguồn: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2017, Tài liệu do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn).

Viết bình luận mới
Tin cùng chuyên mục
Các tin khác
Xem thêm >>